Những Lễ Tết Việt
Nam
Lời mở đầu: Nói đến Tết Việt Nam thì có rất nhiều bậc
thức giả, trưởng thượng hiểu rõ nguồn cội, phong tục Tết hơn người sưu tầm.
Thêm vào đó vì là một bài tóm lược nên không tránh khỏi thiếu sót, mong quý đọc
giả hoan hỷ cho cũng như trân trọng đón nhận sự chỉ giáo của quý vị.
Tết Nguyên Đán
(Tết Cả) là Lễ Hội lớn nhất trong các Lễ Hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn
đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới. Tết còn là dịp để mọi người
Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội, giao cảm nhân sinh trong quan hệ
đạo lý (ăn quả nhờ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng...
* Tết Nguyên Đán có từ bao giờ?
Theo Nguyễn Đình
Khang, nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ Đế, Tam
Vương. Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng
Giêng, nhằm tháng Dần.
Nhà Thương,
thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm.
Qua nhà Chu
(1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười
một làm tháng Tết.
Các vua chúa nói
trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ
Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày Tết khác nhau.
Đến đời Đông
Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày Tết vào một tháng nhất định: tháng Dần.
Mãi đến đời Tần
(thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn),
tức tháng Mười.
Cho đến khi nhà
Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức
tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại,
không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông
Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai
có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu,
ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới sinh
ra ngũ cốc.
Vì thế, ngày Tết
thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy.
Dân tộc ta có
nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ Lễ Tiết. Có Tiết Thương Nguyên,
Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trung Thu ...
Dựa theo tài liệu
sưu tầm trên Internet và của trang Web Hà Phương Hoài, chúng tôi lần lượt giới
thiệu tóm lược những cái Tết trong năm nói trên:
* Tết Khai Hạ (Mồng
Bảy tháng Giêng)
Người giàu khai hạ, tớ khai bị
Hết rượu cho nên mới ngủ khì (Vô danh)
Tết Khai Hạ có
nghĩa là Tết mở đầu một ngày vui để chào đón một ngày Xuân mới. Theo cách bói
toán của người xưa thì tuy tháng đầu năm, ngày mồng Một ứng vào Gà, mồng Hai:
Chó, mồng Ba: Lợn, mồng Bốn: Dê, mồng Năm: Trâu, mồng Sáu: Ngựa, mồng Bảy: Người,
mồng Tám: Lúa.
Trong tám ngày đầu
năm, hễ ngày nào khô ráo, sáng sủa thì giống nào thuộc về ngày ấy, có năm được
tốt. Cho nên, đến ngày mồng Bảy thấy trời nắng ráo thì người ta tin rằng cả năm
người được mạnh khoẻ, gặp nhiều may mắn tốt lành. Mồng Bảy hạ cây nêu để
"bế mạc" Tết Nguyên Đán thì người ta mở ngày Tết Khai Hạ để mong mỏi
một năm dài tốt lành, vui vẻ.
* Tết Rằm tháng Giêng (Tết Thượng Nguyên)
"Lễ vật
quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng". Đó là ngày trăng tròn đầu tiên
của năm mới, là Tết rằm tháng Giêng hay Tết Thượng Nguyên. Tết này phần lớn tổ
chức tại chùa vì ngày rằm tháng Giêng còn là ngày vía Phật tổ Adiđà. Thiện nam,
tín nữ đi lễ rất đông.
* Tết Hàn Thực (Mồng ba tháng ba)
Hàn thực có
nghĩa là đồ ăn nguội. Gốc Tết này vốn ở Trung Quốc thời Xuân - Thu cổ đại. Tích
cũ kể: Vua Văn Công nhà Tấn khi gặp cảnh long đong hoạn nạn được người hiền sĩ
Giới Từ Thôi hết lòng phù hộ. Khi vua Văn Công đói quá, Giới cắt thịt đùi mình
nấu cháo dâng vua ăn. Trải qua 19 năm trời nay trú Tề, mai náu Sở, một ngày Văn
Công lại về làm vua Tấn. Mọi người có công giúp vua đều được ban thưởng nhưng rủi
thay vua lại quên mất Giới Từ Thôi đang cùng mẹ ở ẩn trong núi Điền Sơn. Khi
vua Tấn nhớ ra, cho người vào tìm, mời mãi Giới không chịu rời núi. Vua bèn cho
đốt rừng, hy vọng Giới sẽ ra, nhưng Giới Tử Thôi đã cùng mẹ già chịu chết cháy
trong đó. Vua vô cùng thương xót Giới, cho lập đền thờ trên núi. Và cứ mỗi năm
vào ngày mồng Ba tháng Ba, ngày giỗ Giới Tử Thôi, có nước lại tổ chức cúng ông.
Hôm đó, kiêng đốt lửa, ăn thì dùng đồ nguội đã nấu sẵn từ hôm trước.
Từ thời Thăng
Long Đại Việt, nhân dân ta đã ăn Tết này. Người ta làm bánh trôi, bánh chay,
thay cho đồ nguội, cúng gia tiên là chính, chứ ít ai biết đến ông Giới Từ Thôi.
* Tiết Thanh Minh (Mồng
chín tháng Ba)
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. (Nguyễn Du)
Thanh minh có
nghĩa trời độ ấy mát mẻ quang đãng. Ta cũng nhân dịp ấy mà đi thăm mộ những người
trong dòng họ đã mất. Tết thanh minh là lễ tảo mộ. Đi thăm mộ thấy có rậm thì
phát quang đất khuyết thì bồi đắp, rồi về nhà thắp hương cúng gia tiên.
* Tết Đoan Ngọ (Mồng 5 Tháng 5)
Còn gọi là Tết
Đoan Dương cho nên mới có câu thơ:
Chưa ăn bánh tết Đoan Dương
Áo bông chẳng dám khinh thường cởi ra.
Ở nước ta, Tết
Đoan Ngọ được coi trọng, xếp vào hàng thứ hai sau Tết Nguyên Đán. Vì vậy các cụ
thường nói "Mồng 5 ngày Tết". Học trò tết thầy, còn rể tết bố mẹ vợ...
quanh năm cũng chỉ tập trung vào hai Lễ Tết đó.
* Tết Trung Nguyên (Rằm
tháng Bảy)
Tiết tháng bảy ma dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh buốt xương khô (Nguyễn Du)
Tết rằm tháng Bảy
có tên khác là Tết Trung Nguyên, người xưa gọi là ngày "xá tội vong
nhân". Do đó vào ngày này, tại các chùa thờ phật thường làm chay chân tế
và cầu kinh Vu Lan. Còn các nhà thì bày cỗ cúng gia tiên, đốt vàng mã và các đồ
dùng bằng vàng mã để người ở âm ty dùng.
* Tết Trung Thu (Rằm
tháng Tám)
Tết của trẻ con
nhưng người lớn cũng gặp nhau để trà, tửu, ngâm thơ, ngắm trăng gọi là
"thưởng nguyệt". Cổ thưởng nguyệt (trông trăng) có chiếc bánh nướng
hình trăng tròn, bưởi, hồng và nhiều thứ hoa quả khác. Đáng chú ý là các đồ
chơi của các em như tiến sĩ giấy, voi, đèn kéo quân, ngựa hồng, các loại mặt nạ,
đèn ông sao... và tối đến trước khi phá cỗ là trò chơi múa rồng, múa sư tử, xem
đèn kéo quân.
* Tết Trùng Cửu (Mồng chín tháng Chín)
Tết này có nguồn
gốc ở Trung Quốc, ra đời vào thời kỳ thịnh hành của đạo Lão. Chuyện xưa kể rằng:
có người tên là Hoàn Cảnh muốn học được phép tiên. Học mãi đến ngày cuối cùng
thì thầy bảo hãy may mỗi người một cái túi, hái hoa cúc bỏ vào rồi lên núi ẩn
náu. Quả nhiên ngày hôm ấy, mồng chín tháng Chín mưa to, ngập hết cả mặt đất. Người
chết đuối rất nhiều, còn gia đình Hoàn Cảnh thì vẹn nguyên.
Thời kỳ Lý - Trần,
nho sĩ Việt Nam theo tích đó cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng
Tết Trùng Dương. Bây giờ ít có nơi tổ chức Tết Trùng Cửu.
* Tết Trùng Thập (Mồng mười tháng Mười)
Tết này các ông
thầy thuốc thường làm rất lớn. Theo sách cổ Dược lễ thì vào mồng mười tháng Mười,
các thầy thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời (Xuân-Hạ-Thu-Đông)
và dùng thật tốt. Ở nông thôn gọi là Tết Cơm Mới, có bánh dày, chè kho, gà luộc
dùng cúng tổ tiên mừng được mùa lúa.
* Tết Ông Táo (Tết
hai mươi ba tháng Chạp)
Tương truyền là
ngày ông Táo (Táo quân, vua bếp) lên chầu trời để tâu việc làm ăn cả xứ của mỗi
gia đình với Ngọc Hoàng. Chuyện cũ kể rằng: Xưa có hai vợ chồng vì nghèo quá phải
bỏ nhau. Sau người vợ lấy được chồng giàu, một hôm đang đốt hàng mã thì thấy một
kẻ đến ăn xin. Người vợ nhận ra người ăn xin ấy chính là chồng xưa của mình,
thương cảm bèn đem cho rất nhiều gạo thóc, tiền bạc. Người chồng mới nghi ngờ vợ,
vợ ức quá đâm đầu vào bếp chết. Thương vợ cũ người ăn xin cũng đâm đầu vào lửa
chết theo. Ân hận và đau khổ, người chồng mới cũng nhảy vào bếp lửa đó chết.
Thượng đế nghe chuyện thương cảm ba con người có nghĩa kia, bèn phong họ làm
vua bếp.
Ca dao cổ có
câu:
Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà.
Theo tích ấy,
vào ngày 23 tháng Chạp, người ta mua hai mũ đàn ông một mũ đàn bà bằng hàng mã
cùng một con cá chép để vua bếp lên chầu trời. Cá chép thường là cá tươi, rất
to, khi cúng, cúng cả con... Và bây giờ mỗi khi vẽ ông Táo, người ta thường vẽ
ông đội mũ cỡi cá bay trong mây, nhưng rất tiếc lại không có.... quần.
Bởi vậy mới có
bài thơ vui:
Hăm ba ông táo dạo chơi xuân
Đội mũ mang hia chẳng mặc quần
Thượng đế hỏi rằng sao chướng vậy
Tâu rằng: Hạ giới nó duy tân.
Ông Táo hay thần
bếp là người mục kích sự làm ăn của mọi nhà. Theo tập tục hàng năm ông Táo phải
thu xếp lên trời vào ngày 23 tháng Chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với
Ngọc Hoàng. Bởi thế cho nên, trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều
làm mâm cơm đạm bạc tiễn đưa "ông Táo ". Ngày ông Táo về chầu trời được
xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên Đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt
đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm
hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết.
Cùng với tranh,
hoa quả là yếu tố tinh thần cao quý thanh khiết của người Việt Nam trong những
ngày đầu xuân. Miền Bắc có hoa Ðào, miền Nam có hoa Mai, hoa Ðào, hoa Mai tượng
trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình người Việt Nam. Ngoài cành Ðào,
cành Mai, mấy ngày Tết người ta còn "chơi" thêm cây Quất chi chít
trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh
phúc...
Tết trên bàn thờ
tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các thứ bành trái đều không thể thiếu mâm ngũ
quả. Mâm ngũ quả ở miền Bắc thường gồm có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc
quít), hồng, quất. Còn ở miền Nam, mâm ngũ quả là dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ,
xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng
trưng cho ý niệm khát khao của con người vì sự đầy đủ, sung túc.
Và sau cùng,
chúng tôi xin giới thiệu đến quý thính giả ý nghĩa Tết Nguyên Đán và những nét
đặc thù của ngày Lễ Tết này:
* Tết Nguyên Đán
Ngày Tết ở đây tức
là nói tắt Lễ Tiết Nguyên Đán (ngày đầu năm), còn gọi là Tết Cả vì thế to nhất.
Các Lễ Tết trên
có nơi tổ chức có nơi không, với nhiều hình thức nội dung khác nhau. Còn Lễ Tết
Nguyên Đán thì khắp nơi trong cả nước, từ đầu núi đến cuối sông, từ thành thị đến
nông thôn, từ biên cương đến hải đảo đều tổ chức gần giống nhau. Chỉ khác nhau ở
mức sang hèn của từng gia đình hay các loại hoa quả, bánh trái, cơm nước của từng
vùng, miền.
Tết Nguyên Đán
trước hết là Tết của gia đình. Theo tập quán, dầu ai bất cứ ở đâu, làm bất cứ
nghề gì, hàng năm mỗi khi Tết đến cũng mong muốn tha thiết được trở về nhà sum
họp gia đình trong ba ngày Tết. Tết Việt Nam là ngày nhớ nhau, ngày hội đoàn tụ,
đoàn viên ấm cúng.
* Ngày Tết có những phong tục gì?
Ngày Tết, dân tộc
ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai
canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ... Từ trẻ tới già ai ai cũng biết,
sau đây là một vài phong tục đáng được duy trì phát triển:
Tống Cựu Nghênh Tân: Cuối năm quét dọn
sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà
thờ, lau giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế
ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.
Con cháu trong
nhà từ phút giao thừa trở đi được nhắc nhở là không được nghịch nghợm, cãi cọ
nhau, không nói tục chửi bậy... anh chị, cha mẹ cũng không quở mắng, tra phạt
con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở, chúc nhau những điều
tốt lành.
Đối với bà con
xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ
hay xích mích gì đều xúy xoá hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng,
cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu
mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta
chúc nhau những điều tốt lành.
Hái lộc, xông nhà, chúc Tết, mừng tuổi: Ai cũng hy vọng
một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm
cũ. Nhiều nhà tự đi hái lộc ở chốn đình chùa, nơi tôn nghiêm về nhà, tự xông
nhà hay dặn trước người "nhẹ vía" mà mình thích đến xông nhà. Nhiều
người không tin tục xông nhà nhưng cũng dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ
trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay lại đổ tại mình
"nặng vía". Chính vì vậy, sáng mùng Một ít khách.
Sau giao thừa có
tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà cha mẹ. Ông bà cũng
chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng,
bạn bè thân thích. Lời chúc Tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc. Nhìn
chung trong những ngày đầu năm, người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro
hoặc xấu xa.
Phong tục ta
ngày Tết biếu quà, tỏ ân nghĩa tình cảm, học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết
thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà biếu v..v…
Lễ Mừng Thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp
kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào
dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần... Ngày Tết
cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.
Cũng vào dịp đầu
Xuân, người có chức tước khai ấn, học trò, sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh,
người buôn bán mở hàng lấy ngày. Sĩ, Nông, Công, Thương "Tứ dân bách nghệ"
của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thông, làm ăn suôn
sẻ. Sau ngày mùng Một, dù có mải vui tết cũng chọn ngày "Khai nghề",
"Làm lấy ngày". Nếu như mùng Một tốt thì chiều mùng Một bắt đầu.
Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày
tốt hay xấu.
Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh
năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết, nhất là tối
28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì người bố cho phép vui chơi.
Tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích trò nào
chơi trò ấy. Ðến lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam
cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm…
Vì sao có tục
kiêng hốt rác đổ đi trong ba ngày Tết: Trong "Sưu thần ký" có chuyện
người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một con hầu
tên là Như Nguyên, đem về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mùng
Một Tết, Âu Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại
nghèo đi. Kể từ đó kiêng không hốt rác ngày Tết cũng vì sự tích này.
Trên đây là điểm
qua mười một Lễ Tết trong năm.
Cũng có rất nhiều
vần thơ “trào phúng” liên quan đến Tết Nguyên Đán. Tôi từng nghe quý cụ nói
"mỗi người Việt là một thi sĩ". Thật vậy, người Việt Nam chúng ta hầu
như ai cũng có tâm hồn thi sĩ, không nhiều thì ít và chuyện gì cũng làm thơ được,
đặc biệt cho ngày Tết thì vô số... nhưng tôi chỉ giới thiệu với quý độc giả vài
bài tiêu biểu:
* Năm hết Tết đến, bài thơ sau đây phản ảnh rõ nét
những chuyện xảy ra trong năm:
Một
năm chia mười hai kỳ
Thiếp
ngồi thiếp tính làm gì chẳng ra
Tháng
giêng ăn Tết ở nhà
Tháng
hai rõi rãi quay ra nuôi tằm.
Tháng
ba đi bán vải thâm
Tháng
tư đi gặt, tháng năm trở về.
Tháng
sáu em đi buôn chè
Tháng
bảy tháng tám trở về đong ngô.
Chín
mười cắt rạ đồng mùa
Một
chạp vớ được anh đồ dài lưng.
Anh
ăn, rồi anh lại nằm.
Làm
cho thiếp phải quanh năm lo phiền.
Chẳng
thà lấy chú lực điền
Gạo
bồ thóc đống, còn phiền nỗi chi!
* Mượn Tết để làm bài thơ tả tình, tả chân về người
đàn bà
Tháng
giêng là tiết mưa xuân
Tháng
hai mưa bụi dần dần mưa ra
Đàn
bà như hạt mưa sa
Mưa
đâu mát đấy biết là đâu hơn.
Tháng
năm, tháng sáu mưa trận mưa cơn
Bước
sang tháng bảy rập rờn mưa ngâu
Thương
thay cho vợ chồng Ngâu
Cả
năm chỉ mới gặp nhau một lần...
* Cuối cùng, bài thơ ngắn sau đây cho ta thấy hạnh
phúc, quan hệ vợ chồng rất quan trọng…
Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.
Ai ơi cùng vợ cùng chồng
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay!
2013 là Năm Con
Rắn, Quý Tỵ. Để kết thúc bài giới thiệu tổng quát về Tết, như là một hình thức
"Tống Cựu Nghinh Tân" (tiễn đưa năm Nhâm Thìn, chào đón Quý Tỵ) người
viết xin được trích dẫn vài câu ca dao sưu tầm về "Nàng Rắn" theo
truyền khẩu nhân gian.
Phản ảnh sự trêu
ghẹo lãng mạn vì muốn quyến rũ đàn ông nên "nàng Rắn" sẵn sàng chịu
trách nhiệm trong các liên hệ, nhận lãnh "hậu quả":
Con rắn không chân, con rắn biết,
Đá có ngọc ẩn, thì đá hay,
Tội thì thiếp chịu, vạ chi lây tới chàng?
Diễn tả nỗi mơ ước thầm kín của người phụ nữ, mong
được gặp người thương:
Con quạ đen con cò trắng
Con ếch ngắn, con rắn dài
Em trông anh trông mãi, trông hoài
Trông cho thấy mặt thấy mày mới yên
hoặc để ví von "sự quan hệ giữa nam - nữ":
Con rắn không chân đi năm rừng bảy rú
Con gà không vú nuôi chim mười con
Phải chi nhan sắc em còn
Anh vô chốn đó chịu lòng mẹ cha.
"Rước voi
giầy mả tổ" thường đi đôi vối câu ca dao sau đây là
Cõng rắn (có lẽ
đúng hơn Bắt rắn về) cắn gà nhà! Mục đích phê phán những kẻ phản bội lại nhân
dân, tổ quốc, đem giặc hay ngoại bang về sát hại đồng bào, điển hình như hành động
ký kết dâng đảo Hoàng Sa cho Tàu cộng ngày 14.09.1958 của Phạm Văn Đồng và nhóm
chóp bu csVN đã bị người Việt khắp nơi lên án từ nhiều năm qua.
Vì "Rắn"
thích một cuộc sống bình yên, chọn sự yên tĩnh nên Ca dao Việt Nam diễn tả
"sự nghi ngờ chàng hay nàng muốn ve vãn người trong mộng" rất thâm
thúy, đầy lãng mạn tính:
Con chi rột rẹt sau hè,
Hay là con rắn mối tới ve con chuột xù?
Mục đích phê phán những kẻ phản bội,
Và để khen tặng ai khéo ăn nói, dễ thuyết phục người
khác, có câu:
Nói rắn trong lỗ bò ra!
Sau hết, người
viết cũng xin lưu ý một điều quan trọng liên quan đến tình duyên là người bạn đời
của "Rắn" giống như một phần thưởng "Rắn" giành được sau thời
gian dài thầm mong ước vì thế "Rắn" trở nên ghen tuông và thậm chí bảo
vệ người thương. Cho nên đừng bao giờ phản bội "người tuổi Tỵ" vì một
khi con "Rắn" bị phản bội sẽ trả thù ghê gớm lắm!
Tuổi Tỵ hạp với
Tuổi Dậu (con Gà) và tuổi Sửu (con Trâu)!
Ngược lại tuổi Tỵ
kỵ (khắc) với tuổi Dần (con Cọp), tuổi Thân (con Khỉ) và tuổi Hợi (con Heo).
Trước thềm năm mới,
xin kính chúc quý độc giả một Năm Quý Tỵ 2013: “AN KHANG THỊNH VƯỢNG và HẠNH
PHÚC”.
Tài liệu tham khảo:
- Ca dao sưu tầm
theo truyền khẩu nhân gian.
- Internet,
Trang Web Hà Phương Hoài
Lê-Ngọc Châu
(Nguồn: vietcatholic.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét