soáng
TÆNH THÖÙC (1)
“Haõy tænh
thöùc, haõy ñöùng vöõng trong ñöùc tin”
(1Cr 16,13)
Từ ngữ tỉnh thức được lập lại 12 lần trong Tân Ước, mời gọi ta
hãy cảnh giác mình trong từng giây phút sống. Đó là ý thức phản tỉnh trong từng
tư tưởng, lời nói, việc làm, và trong mọi trạng huống của đời sống, để sống
trong ánh sáng của chân lý và tình yêu. Tỉnh thức để nhận ra Chúa, Đấng luôn âm
thầm lặng lẽ đến với ta trong mọi lúc. R. Tagore chia sẻ cảm nhận về Đấng Chí Tôn như sau: “Bạn không nghe thấy bước chân Người thầm lặng
đó sao? Người tới và luôn luôn thường tới... hằng giờ, hằng đêm, hằng ngày,
hằng thời đại… Bước chân Người đã dẫm lên tim tôi đang ôm nặng những nỗi buồn
dai dẳng. Khi niềm vui trong tôi ngời sáng, ấy là do chân Người vàng óng chạm
vào”.
Chúng ta đã không từng có
những cảm nhận đó sao? Cách thức và mức độ nhận ra Chúa nơi mỗi người có khác
nhau tùy theo khả năng đôi tai và đôi mắt của tâm hồn, nhưng vẫn giống nhau do
ta biết tỉnh thức. Thiếu tỉnh thức ta sẽ đánh mất nhiều cơ hội làm nên cuộc đời
mình, dễ rơi vào tối tăm và sa lạc, vào nguy hiểm và cạm bẫy của các thần
tượng. Điều đáng sợ hơn cả là mất đi cơ hội cuối cùng của cuộc đời mình để được
gặp Chúa trong cuộc sống vĩnh hằng. Do đó, Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày
nào giờ nào” (Mt 25,13).
Phải luôn tỉnh thức vì ta dễ
bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim ta dễ bị trì trệ nặng nề về
những lo lắng trần gian. Cả những lo lắng chính đáng cũng có thể kéo ta đi xa,
khiến ta mất khả năng dừng lại và quên đi lẽ sống đích thực. Thế giới hôm nay
có nhiều thứ gây mê. Vì thế, tỉnh thức là thái độ hiện sinh của người Kitô hữu
để không rơi vào tối tăm, lầm lạc, nhưng luôn hân hoan đi trong ánh sáng của
ngày mới, của niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.
1. Thế nào là
tỉnh thức
Tỉnh (醒: giác
ngộ, không còn mê muội. Thức (識): biết. Tỉnh Thức: nhận ra, nhận biết.
Hiểu theo nghĩa
bình thường: làm cái gì mà biết rõ là mình đang làm, đó là ngộ, trái lại là mê. Tỉnh thức nghĩa là có mặt hoàn toàn, là nhận biết rõ ràng về
tính cách, hành động và mọi diễn biến đang xảy ra bên trong và bên ngoài mình. Tuy
nhiên, điều căn bản nhất của quá trình
tỉnh thức là nhận ra sự mê mờ đang tồn tại ở trong ta: là những ấn tượng sai
lầm về tính xác thực của một con người, một tính cách, một sự việc, một biến
cố... . Đó còn là những thói quen suy tư đầy tính băng hoại trong tâm thức
của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống, khiến ta sống
trong tình trạng chưa thức tỉnh.
Các tôn giáo đều cho thấy
một chân lý căn bản này: trạng thái tâm lý “bình thường” nơi hầu hết mọi người
đều chứa đựng một yếu tố mạnh mẽ của sự
tha hóa, thậm chí có thể gọi là sự điên loạn. Ấn giáo gọi đó là “Maya”: ảo
tưởng, mê lầm hoặc vô minh. Phật giáo gọi đó là “dục vọng” do tâm trí con người
tạo nên, là nguồn gốc của mọi đau khổ. Kitô giáo gọi đó là “tội” từ nguyên tổ,
do sự mù quáng của con người. Những cách diễn tả trên có khác nhau nhưng đều
hàm ý về sự tha hóa, vô minh cố hữu trong thân phận con người.
Nếu không có sự chuyển hóa tận gốc trong
chính tâm thức ta về cách nhìn đời sống, thì những cố gắng để trở nên một người tốt hơn chung
quy cũng chỉ là một mong muốn bất thành. Dù ta có trở nên một người tốt hơn
chăng nữa, e rằng đó cũng chỉ là một phần của sự tha hóa - một trạng thái tự
tôn rất tinh vi - vì lòng ham muốn có nhiều hơn cũng chỉ là để củng cố
thêm cho cá nhân mình. Ta chỉ có thể trở nên tốt hơn bằng cách nhận ra sự tinh
khiết, sự cao thượng đã có sẵn ở trong mình, và làm cho những phẩm chất thánh
thiện ấy dược biểu lộ ra[1].
Thánh Gioan có nói tới sự sụp đổ của trật
tự thế giới cũ và sự xuất hiện của “trời
mới đất mới” (Kh 21,1). Điều đó không chỉ về thế giới mới mai sau, mà còn chính là
một cách nhận thức mới trong tâm thức
của con người hôm nay. Không có sự chuyển hóa tâm thức để thành con người mới
hôm nay, sẽ không hề có thế giới mới cho ta mai sau. Nếu cách suy nghĩ cũ của ta không thay đổi, thì dù ta
có làm gì đi nữa, cũng chỉ là tái tạo lại một thế giới cũ, với những thói xấu
và những tha hóa mới mà căn bản giống như thế giới trước đây.
Cũng vậy, “Chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2Pr 3, 13). Công lý ấy chính là Thiên Chúa trong tâm hồn con người, là
chính lương tâm của ta. Công lý ấy không được làm sáng lên trong ta ở đời này
thì làm gì có công lý ngư trị trong ta ở đời sau. Trời mới đất mới thực sự đã
tiềm ẩn và đang chớm nở trong lòng người. Nói theo Eckhart Tolle: “Cõi trời
mới” chính là sự xuất hiện của một thứ tâm thức mới và “thế giới mới”
chính là sự phản ánh của tâm thức mới này qua thế giới vật chất.
Như vậy, người tỉnh thức
là người không có ảo tưởng về bản thân và cuộc đời; không nhầm lẫn mộng tưởng
với thực tại; không còn mê muội, mơ hồ, nhưng là người nhận biết mình đang
biết: biết về thực tính của con
người; về thực trạng của bản thân; về
thực chất của cuộc sống; về thực tại của sự vật, sự việc và mọi biến
chuyển xung quanh mình. Sự nhận biết đó khiến ta sống thực tâm với Chúa, thực tình với
mọi người, và thực tế trước mọi hoàn cảnh
một cách ung dung và an nhiên tự tại.
Người sống tỉnh thức là
người sống có lý tưởng, có một định hướng siêu việt, nghĩa là luôn hướng đến
Chân, Thiện, Mỹ, để luôn tư tưởng và hành động trong sự khôn ngoan và đạo đức. Người
tỉnh thức cũng chính là người sống đẹp từng giây phút hiện tại, với toàn tâm,
toàn ý trong từng công việc, từng bổn phận, từng mối quan hệ với tâm hồn đầy
yêu mến.
Tỉnh thức cũng chính
là giác ngộ, vì giác ngộ là tỉnh ra mà thấu rõ chân lý, không còn để mình sống
trong sự lầm lạc và tối tăm. Giống như
mặt trời ló rạng sau một đêm: ánh sáng bừng lên xua tan bóng tối, khiến mọi vật
lộ rõ bộ mặt thật của chúng. Tâm hồn của những người tỉnh thức cũng thế, nhờ
Mặt Trời chân lý chiếu soi tự thâm tâm, họ nhìn thấy mọi cái đúng với bản sắc
và thực chất của chúng, nên tâm hồn đầy bình an, thanh thản, và an nhiên tự tại bước đi trong ánh sáng.
2. Hai dụ ngôn về tỉnh thức
v Năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan (Mt 25, 1-13).
Ø Khờ dại
trong tiếng Hy Lạp là Môros. Thánh Matthêu cũng dùng tĩnh từ này khi nói về người
xây nhà trên cát, ngụ ý nói tới người nghe Lời Chúa mà không đem ra thực hành (x.
7, 26-27). Một lần khác (x. 23, 17) Matthêu cũng dùng tính từ này để nói tới
những người biệt phái câu nệ lề luật một cách vụn vặt không còn nhận ra cái gì
là chính yếu trong bậc thang giá trị của đời sống.
Như vậy, khờ dại không phải là không biết điều mình
phải làm, nhưng biết mà đã không làm, đến lúc cuối mới lo làm thì đã quá muộn
màng. Nó diễn tả một cuộc sống cạn cợt, hời hợt, thiếu ý thức, chỉ lo an nhàn
và xoe xua bên ngoài mà không chuẩn bị cho mình một khả năng và phẩm cách bên
trong. Con người chứ đâu phải con công mà chỉ lo làm đẹp cho bộ lông của mình. Chỉ
lo những điều phụ thuộc nên chẳng lạ gì mà quên xót điều chính yếu, đến lúc
nguy kịch thì lại cậy nhờ vào kẻ khác. Nhưng rồi tới lúc kẻ khác chẳng thể làm
gì khác hơn cho mình, van nài cũng vô ích: “Các
chị nên ra hàng mua thì hơn”. Van xin Chúa cũng vậy thôi: “Ta bảo thật, ta không biết các ngươi là ai”.
Không thể vay mượn nhân cách và vốn liếng đạo đức của
người khác để sống với Chúa. Nhất thiết phải có những điều tự tạo lấy cho mình,
làm nên cho mình, không thể dựa dẫm vào người khác. Cổ nhân có câu: “Tự trợ giả Thiên trợ”. Không tự giúp
mình thì Trời cũng không thể giúp; không tự chuẩn bị cho mình điều tối cần thì
Chúa cũng đành bó tay. Theo nghĩa đó, ngày Chúa đến cũng không phải là điều bất
ngờ. Bất ngờ là vì mình đã không sống điều mình phải sống, không có điều mình
phải có, không làm điều mình phải làm. Người không tỉnh thức thì không ý thức
điều chính yếu, luôn hướng đến những điều phụ thuộc: lo làm những cái không cần
làm, lo có những cái không cần có, lo thể hiện những cái không cần thể hiện.
Chúa cũng đã trách Matta: “Con
lo lắng bối rối về nhiều chuyện quá, chỉ có một điều cần mà thôi”. Hiểu
được chân lý đó, nên Einstein đã từng nói: “Tôi
chỉ muốn biết ý muốn của Thượng
Đế là gì, những thứ còn lại không
quan trọng”.
Câu nói này như họa lại ý hướng của
thánh Phaolô: “Tôi coi tất
cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl
3, 8).
Điều quan trọng là ta coi trọng cái gì? Coi trọng điều
không quan trọng thì quả là khờ dại. Chính cái ta coi trọng sẽ định hướng, định
vị và định giá toàn thể cuộc đời ta, và từ đó phát sinh một tính cách và thái
độ hành xử trong tương quan với Chúa và tha nhân. Ai cũng biết rằng, giá trị
đời sống không dựa trên những điều phụ thuộc, nhưng dựa trên điều chính yếu.
Những điều phụ thuộc chỉ có giá trị khi chúng qui hướng và hổ trợ cho điều
chính yếu là sự sống đích thực và vĩnh cửu của ta.
Ø
Khôn ngoan trong tiếng Hy Lạp là Phronimos. Matthêu dùng để nói về người xây nhà trên đá, nghĩa
là đem Lời Chúa ra thực hành (x. 7, 24). Đó là thái độ tỉnh thức mà người môn
đệ Đức Giêsu phải Phronimoi như con
rắn và đơn sơ như chim bồ câu (x. 10,
16), đồng thời nói về người đầy tớ trung
tín và phronimos mà chủ
đã đặt lên… (x. 24, 25).
Như vậy, khôn ngoan là vừa biết nhận định chính xác về sự việc, vừa kiên
quyết thi hành. Đây không phải chỉ là sự nhận biết của lý trí, nhưng còn là sự
yêu mến của con tim. Chính vì thiếu tình yêu nên người ta dễ dàng sống chểnh
mảng, ươn lười, đánh mất ý thức về điều quan trọng nhất trong cuộc đời mình. Không
phải nói: Lạy Chúa, lạy Chúa... nhưng là thi hành
ý muốn của Chúa (x. Mt 7, 21). Chỉ
ở trong tình yêu ta mới biết phải hành động như thế nào và sống ra sao. Tình
yêu chính là sức mạnh để ta sống nhiệt tâm, phục vụ nhiệt tình, và là động lực
sáng tạo để biết hành động cách khôn ngoan. Chỉ với trái tim yêu thương tinh
khiết, ta mới luôn tỉnh thức để đón đợi người mình yêu.
v
Dụ ngôn những nén bạc (Mt
25, 14-30).
Ông chủ đã chọn mặt gởi vàng, khi giao các nén bạc cho
các đầy tớ. Điều quan trọng ở đây không phải là số lượng được giao, mà là công
sức được sử dụng, và khả năng được tận dụng. Người ta không bằng nhau ở số
lượng, nhưng bằng nhau ở nỗ lực. Giá trị ở đây cũng không không tùy thuộc vào mức
độ lời lãi cao hay thấp, nhưng tùy theo khả năng đã được trao ban. Đó là giá
trị của một phẩm cách hơn là một phẩm vật.
Điều ông chủ quan tâm nhất không phải là khả năng
chuyên môn, nhưng là nhân đức của người đầy tớ. Chính nhân đức mới quyết định
thành bại cuộc đời, nghĩa là trở nên một đầy tớ trung tín và chăm chỉ làm việc,
để xứng đáng với lòng tin của ông chủ. Với tâm tình đó, hai người đầu tiên đã
trung thành và tích cực làm việc ngay cả khi ông chủ vắng mặt. Và rồi họ đã vui
mừng ngày ông chủ trở về. Niềm vui tràn trề vì phần thưởng lớn lao, vượt quá
niềm hy vọng, “vì ai có thì được cho thêm”.
Người đầy tớ thứ ba đã chôn giấu nén bạc của chủ, một
hành động tắc trách. Nói theo ngôn ngữ kinh tế thời nay, đó là cách đóng băng
tài sản của chủ, gây tác động xấu đến toàn bộ kế hoạch đầu tư, và do đó có nguy
cơ làm đình trệ cả một dây chuyền kinh doanh của ông chủ. Anh ta còn công nhiên
tố cáo ông chủ “là người hà khắc, gặt chỗ
không gieo, thu nơi không phát”. Cái nhìn đó phải chăng bắt nguồn từ lòng
dạ hẹp hòi và đôi mắt thiển cận, nên không nhìn ra một ông chủ đầy lòng nhân
hậu. Hay đó chỉ là lý do biện minh cho sự tồi
tệ và biếng nhác (c. 26), chứng
tỏ một tâm hồn yếu nhược, không có chí khí để nỗ lực hoàn thành chính mình.
Chắc ông chủ cũng đã thấy điều đó nên chỉ trao cho anh
ta một nén bạc, phù hợp với khả năng để có thể phát khởi một tính cách mới, một
cuộc đời mới. Nhưng tiếc thay, anh đã không nhận ra và đã ngang nhiên phụ bạc
tấm lòng của chủ, do bản tính nông nổi của mình. Quả đúng như câu: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”.
Thế rồi anh ta giao trả lại nén bạc với lời lẽ thô
thiển: “Của ông đây, ông cầm lấy”.
Nói như thế khác nào bày tỏ một lập trường thù địch: không chỉ đơn thuần phủ
nhận nén bạc của ông chủ, mà còn từ chối mọi quan hệ làm ăn và cắt đứt tình nghĩa
với ông chủ. Thái độ mê muội cuối cùng này khiến anh ta mất hết, mất tất cả
những gì đã có, mất cả cuộc đời.
Giá trị cuộc đời không đo bằng số lượng của cải hay
tài năng, nhưng bằng sự nhiệt tình và lòng trung thành. Giả sử người đầy tớ
nhận một nén bạc biết hài lòng với mình, có lòng với ông chủ, chắc chắn anh dư
khả năng để hoàn thành nhiệm vụ, và cũng tràn ngập niềm vui như hai người kia
khi ông chủ trở về. Nhưng tiếc thay, một hoàn cảnh hai số phận, do anh ta đã
hành xử cuộc đời của mình cách cẩu thả, thiếu niềm tin, thiếu tấm lòng và sự
khôn ngoan bình thường. Để rồi với cái nhìn lệch lạc và tính khí tiêu cực, anh
ta đã tạo nên một định mệnh oan nghiệt cho mình. Hậu quả oan khiên này cũng chỉ
vì không tỉnh thức trong suy nghĩ và hành động.
Từ hai dụ ngôn trên, ta rút ra vài phương cách chính
yếu để sống tỉnh thức.
3. Phương cách sống tỉnh thức
Để tránh những nguy hại và hối tiếc muộn màng, có khi
trở thành định mệnh khắc nghiệt, ta phải tập cho mình biết luôn tỉnh thức giữa
cuộc đời vô thường.
- Sống trọn vẹn giây phút hiện
tại
Tỉnh thức là sống trọn vẹn trong giây phút này: khi đi
thì ý thức mình đang đi, khi đứng thì ý thức mình đang đứng, v.v., nghĩa là để
hết tâm ý vào công việc mình đang thực hiện. Người tỉnh thức ở mức độ cao còn ý
thức cả về hơi thở, mọi động tác, mọi hiện tượng sinh lý, vật lý, cảm giác và
tư duy liên hệ tới bản thân nữa. Bất cứ trong tư thế hay tình thế nào, người
tỉnh thức cũng ý thức được rõ ràng, đồng thời làm chủ được cảm xúc, tư tưởng, hành
vi và thái độ của mình.
Tâm trí ta thường dễ lơ đãng, hay bôn chôn và lo nghĩ
về đủ mọi thứ mà ít khi tập trung vào hiện tại: làm việc này thì nhớ việc kia;
ở chỗ này thì hướng đến chỗ nọ. Sống như vậy là để xác một nơi, hồn một nẻo,
nên tâm không yên, trí không ổn. Cứ mong cho mọi sự được xảy ra theo ý mình,
buồn lòng vì người này, khổ tâm vì người kia, chán nản vì điều nọ, là đặt mình
trong tình trạng không tỉnh thức. Những tình trạng đó làm cho nguồn lực trong
ta bị phân tán, năng lực bị phát tán. Những xáo trộn ngổn ngang sẽ kích hoạt trí
tưởng tượng mạnh hơn, các sung năng sôi động hơn, tâm hệ bị lay chuyển nguy hại
hơn, không còn khả năng cảm nếm hay nghe thấy điều gì khác hơn. Khổng Tử đã nói
lên tình trạng đó như sau: “Tâm bất tại
yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị” (tâm đã
không yên thì có nhìn cũng không thấy, có nghe cũng không hiểu, có ăn cũng
không biết mùi vị).
Người lớn tuổi thường quay về quá khứ, và quá khứ chính là những
ký ức. Nhưng ký ức tự nó không phải là vấn đề, vì nhờ ký ức mà ta học hỏi được từ
quá khứ. Chỉ khi nào ký ức là những chuyện quá khứ hoàn toàn xâm chiếm tâm tư, lúc đó ta mới thật có vấn đề. Vì bấy giờ quá khứ với ký ức
chứa đầy cảm nhận sai lầm về chính mình sẽ trở thành ngục tù giam giữ ta, khiến
ta tin rằng đó là bản chất chân thực của mình. Nhưng thật ra đó chỉ là ảo tưởng,
sẽ tạo nên những cảm xúc tiêu cực và sinh ra bao nhiêu mê lầm khác, hình thành
một lối sống mà thực sự không phải là mình. Bởi vậy có những lúc nhìn lại bản
thân ta thấy xa lạ với chính mình.
Đừng làm sống lại trong trí óc những gì của một thời đã qua, để ta
có thể sống những giây phút hoàn toàn mới trong hiện tại. Đừng khơi dậy đống
tro tàn cũ, mà hãy nhóm lên ngọn lửa mới của giây phút này. Đừng nằm lì với
những thành công và vẻ vang không còn nữa, nhưng hãy sống với con người thật
hôm nay. Đừng suy nghĩ mông lung và buộc vào mình những chuyện ngang trái của
quá khứ, nhưng hãy buông xả mọi lo âu và gồng gánh nặng nề (x. Mt 11, 28), để
ta có thể đón nhận nguồn sinh khí mới đang luân chuyển từ chính tâm hồn mình.
Tương lai cũng chỉ có trong hiện tại. Nếu có một tương
lai nào khác thì chẳng qua cũng chỉ là một ý niệm trong đầu ta chứ không có
thực. Vì vậy, giây phút quan trọng nhất là giây phút ta đang sống; việc quan
trọng nhất là việc ta đang làm; người quan trọng nhất là người ta đang gặp. Đừng
luyến tiếc điều gì đã qua, đừng mong muốn điều gì sẽ đến, cũng đừng đòi hỏi nó
phải khác đi. Hiện tại là như thế, không thể khác được. Có thay đổi được gì thì
cũng do mình thay đổi cách suy nghĩ, cái nhìn và thái độ. Hiện tại không áp đặt
lên ta điều gì, nó là một món quà được trao tặng (present = món quà = hiện
tại). Nếu ta đón nhận toàn tâm, toàn ý, thì hiện tại mở ra cho ta những chân
trời mới, khả năng mới, sức sống mới.
Hiện tại không bao giờ là
một chướng ngại, dù trong bất cứ tình thế nào. Nó là môi trường duy nhất để ta
ứng dụng mọi nguyên tắc và kinh nghiệm; là địa bàn để ta dàn trải tư tưởng và
hành động để làm đẹp cuộc sống, hầu cảm nhận nét bút kỳ diệu của Thiên Chúa
trên những đường cong của cuộc đời mình. Hiện tại cũng không phải là phương tiện để ta đạt được điều gì, nhưng là đỉnh cao
của cuộc sống mà ta đang sống. Do đó, người
sống tỉnh thức là người chủ động chấp nhận mọi tình huống xảy ra không như ý
mình muốn mà vẫn an bình, hạnh phúc.
Chỉ trong cầu nguyện, ta mới tập quen có
một ý thức thâm sâu về giây phút hiện tại. Trong đó, ta cần nhìn lại chính mình
và tự hỏi xem, hiện giờ có cảm xúc tiêu cực
nào ở trong mình không? Nên để ý cả đến những ý nghĩ có vẻ như biện minh hay giải thích cho cảm giác bất an
nào đó, mà thật ra nó chính là nguyên nhân. Nhận ra một trạng thái tiêu cực ở
trong mình là ta đang tỉnh thức, để có thể tách rời mình ra khỏi những ý nghĩ,
cảm xúc và phản ứng vô thức đang muốn đồng hóa với chính mình. Đây là lúc tâm
thức của ta đang trải qua một sự chuyển đổi: trước đây ta là những suy nghĩ, cảm
xúc và phản ứng tiêu cực đó, bây giờ ta là ánh sáng của nhận thức, là sự hiện
diện đầy ý thức đang chứng kiến những trạng huống tình cảm xảy ra nơi mình bằng
một tâm thế thanh thoát và nhẹ nhàng, vượt khỏi những kích động bung xung và
nhập nhằng của ngoại giới.
- Biết lắng nghe và phân định
Tỉnh thức là luôn biết lắng nghe từ những vang vọng
trong thâm tâm đến tiếng nói của tha nhân, từ mọi hoàn cảnh đến mọi biến cố. Đó
là sự lắng nghe một cách bình thản để phân định thực hư, và tầm quan trọng theo
bậc thang giá trị chân thực. Đứng trước những lôi kéo và áp lực, người tỉnh
thức không chiều theo để được yên thân, không tránh né làm ngơ để được yên vị.
Trái lại, biết bình tâm và sáng suốt chọn lựa cho mình một lập trường, một
hướng đi, không theo ai hay theo cái gì, mà theo tiếng nói của lương tâm chân
chính, của sự thật và bác ái. Không thể có sự thật mà thiếu bác ái, và cũng
không thể có bác ái mà thiếu sự thật. Đó là nguyên tắc hành động của người tỉnh
thức trong mọi tình huống.
Mọi sự phải được xem xét lại cách khách quan, không
thành kiến, không thiên vị, không xu hướng, không xét đoán, không câu nệ hay
chấp nhất những tiểu tiết và hình thức bên ngoài. Là Kitô hữu, ta không chỉ
biết chắt lọc những điều mắt thấy tai nghe qua tâm trí và kinh nghiệm sống, mà
còn biết đánh giá mọi cái dưới ánh sáng Lời Chúa. Qua đó, ta hiểu được tiếng
nói của thiên nhiên, dấu chỉ của thời đại, ý nghĩa của thời điềm, trong sự cảm
thông, bao dung và tiếp nhận tha nhân.
Thái độ lắng nghe của người tỉnh thức là thái độ vô
tư, khiêm tốn, xóa mình, vượt qua mọi chia cắt, phân cách, hiềm khích, nghi kỵ,
phân biệt, để cho chân lý, tình yêu và bình an sáng lên trong tâm hồn mình và mọi
người. Muốn vậy, ta phải sắp xếp lại căn phòng nội tâm của mình cho ngăn nắp và
trật tự. Có nhiều thứ còn hỗn độn và xáo trộn trong lòng mình, khiến ta không
rõ ràng nơi chính mình, nên cũng không rõ ràng nơi tha nhân và ngoại vật. Thiếu
ý thức về những chướng ngại và những giăng mắc trong tâm hồn mình là thiếu tỉnh
thức và tự ru ngủ mình trong an tâm giả tạo. Cần có sự yên tĩnh trong mình để
nhìn ngắm, lắng nghe và có mặt trong mọi giây phút. Nhờ vậy ta có thể thanh tẩy
và nâng cao sức sống trong tâm hồn mình.
- Năng suy nghĩ về sự
chết
Thường
xuyên suy gẫm về sự chết là cách thế hữu hiệu nhất để sống cách tốt nhất. Hồng
Y Px. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm: “Nếu tôi biết ngày mai mình sẽ chết, thì hôm nay tôi sẽ sống một ngày
đẹp nhất”. Chúng ta chưa sống từng ngày đẹp nhất là vì cứ tưởng mình còn
lâu mới chết.
Đó cũng
là cơn cám dỗ làm ta mê say cuộc sống này, mất đi sự cảnh giác. Ai cũng dễ ham
gây dựng cho mình một sự nghiệp trần thế, muốn có uy tín hơn, sáng giá hơn,
chức vụ cao hơn, ảnh hưởng lớn hơn, mọi người nể phục hơn, làm nên những công
trình to tát hơn. Ít ai muốn sống âm thầm, hiền lành, khiêm tốn và vui lòng
chịu khó, chịu khổ theo ý Chúa muốn; ít ai muốn chịu khinh khi, chịu xóa mình,
chịu quên lãng, để sống cho Chúa và tha nhân.
Nhưng rồi tất cả những gì
chúng ta gầy dựng cho riêng mình đều là hư vô, vì khi nằm xuống trong lòng đất
rồi thì tất cả đều chấm dứt, chẳng còn lại gì. Chẳng ai còn nhớ đến, thế hệ
tương lai cũng chẳng biết ta là ai, hiện hữu cũng vậy, không hiện hữu cũng thế,
duy chỉ một mình Chúa biết. Quả thật, ý nghĩa và giá trị cuộc sống của ta chỉ ở
nơi Chúa mà thôi. Vì thế, đừng bao giờ tìm kiếm những gì ngoài Chúa, những gì
không phải là Chúa.
- Đong đầy tình yêu thương
Người tỉnh thức là người
sống bằng tình yêu: yêu Thiên Chúa, yêu con người, yêu vạn vật. Tình yêu cho ta
nghị lực để sống phấn khởi trong mọi tương quan và mọi công việc. Tình yêu cho
ta biết sáng tạo trong mọi hoàn cảnh, vì nó liên kết ta với năng lực sáng tạo
của vũ trụ là Chính Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo mọi sự bằng tình yêu của Ngài.
Đó là nguyên nhân tối thượng và là động lực tối hảo cho đời sống và mọi hoạt
động của ta.
Những gì ta làm trong
trạng thái tỉnh thức với tình yêu cao độ đều thú vị, sinh động, phấn khởi, chứ
không tẻ nhạt, buồn chán, khó chịu hay căng thẳng. Thiếu tỉnh thức, ta chỉ hiện
hữu chứ không hiện diện, hoặc hiện diện nhưng không hiện thực với tất cả tình
yêu thương.
Tình yêu không trọn vẹn,
không dâng đầy, không chan hòa, thì không phấn khởi, không có bình an và hạnh
phúc. Tỉnh thức trong tình yêu là kết quả của sự chìm sâu trong cầu nguyện mỗi
ngày, để kín múc sự sống mới và hòa nhập vào trái tim yêu thương của Chúa. Có cảm
nếm sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa, ta mới biết hiện diện đầy yêu thương
với tha nhân và mọi loài mà Chúa đã dựng nên cho ta, vì ta. Do đó, việc ưu tiên trong chương trình sống của
chúng ta hằng ngày là phải đong đầy tình yêu thương trong từng giây phút đi qua
trong đời. Những giây phút thiếu yêu thương sẽ trở thành tăm tối và vô nghĩa trong
đời ta.
Dostoievski
có lần kể câu chuyện về một người phụ nữ ở dưới luyện ngục van xin thánh Phêrô
cho lên thiên đàng. Thánh nhân yêu cầu bà nhớ lại xem đã làm được điều gì tốt
để ngài có thể dựa vào lý do đó mà xét cho vào thiên đàng. Bà ta nhớ là đã có
lần cho lão ăn mày một củ hành. Thánh Phêrô nói: “Vì ngươi đã cho kẻ khó một củ hành nên bây giờ ta sẽ cột sợi dây vào
củ hành thả xuống luyện ngục, rồi ngươi cứ bám vào đó, ta sẽ kéo lên”. Thế
là bà ta bám chặt vào củ hành để thánh Phêrô kéo lên, khổ nỗi là cả đám người nhào
theo. Bà ra sức chống trả, vừa đạp họ xuống vừa la: “Một mình tao lên thôi”! Tiếc thay, vì dẫy dụa quá nên sợi chỉ bị
đứt, bà đành phải ở lại chỗ cũ.
Chỉ
cho kẻ nghèo một củ hành thôi mà cũng đòi lên thiên đàng, với lòng dạ vẫn còn đầy
ích kỷ. Giai thoại này khiến ta liên tưởng đến các nhân vật tư tế và trợ tế
trong dụ ngôn Người Samari nhân hậu (x. Lc 10), khi họ vội vã lên đền thờ mà bỏ
quên tha nhân trong cảnh đau thương. Không chỉ bỏ quên mà còn làm ngơ, giả mù, giả
điếc, để khỏi bị phiền hà và liên lụy. Phải chăng đó là thái độ không tỉnh
thức? Thiếu lòng nhân ái và đại độ với người đang cần cứu giúp thì kinh nguyện
hay lễ tế kia có nghĩa lý gì? “Hãy về học
cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9, 13).
Tình yêu thương là cội nguồn và là một cảnh giới mà ta chỉ đạt tới
khi tâm hồn mình đã tỉnh thức. Bấy giờ ta mới biết lắng nghe và hành động như
Đức Giêsu, để đem lại một sự sống mới, đầy tràn sinh khí cho cuộc đời.
4. Nhìn lại cuộc sống
Ta hay đặt thành nhiều vấn đề cho cuộc sống, nên phải
cứ lo toan và đối phó không ngừng. Cuộc sống tự nó không phải là một vấn đề, vì
tự bản chất của nó là một ân ban (x. Mt
6, 27). Điều khó khăn cho chúng ta là ôm
đồm và lo lắng quá nhiều, đang khi đó chỉ có “một điều cần nhất mà thôi”
(Lc 10, 42). Sự
kiện chỉ là sự kiện, ta cứ an nhiên đón nhận nó như nó phải xảy ra. Nỗi khổ chỉ
nảy sinh từ việc ta chống chõi lại với những sự việc mình phải đón nhận, khiến
cho tiến trình cuộc sống bị ngăn trở.
Phản ứng thế nào khi đứng trước những hoàn cảnh và
biến cố mới là vấn đề. Ta tưởng rằng mình quan trọng mới làm thành vấn đề. Chính
cái “Tôi” được lý tưởng hóa nơi bản thân ta mới tạo ra các vấn đề, và từ đó gây
ra xung khắc với chính mình, xung đột với người khác. Cho dù theo lẽ tự nhiên, có
những vấn đề được đặt ra trước mắt, chúng cũng không gay gắt như ta tưởng. Chỉ
có cái “Tôi” mới làm phức tạp thêm cho cuộc sống.
Tùy theo cách dùng đại từ “Tôi” mà ta
đang sống mê lầm hay tỉnh thức. Theo cách dùng thông thường, từ “Tôi” luôn tạo
ra một cảm nhận sai lầm về bản chất chân thật của mình. Từ “Tôi” đó khiến ta
đồng hóa mình với một tình trạng hiện hữu mà không muốn sống khác đi, tự trói
buộc mình vào một tính cách hay một khuôn khổ mà nghĩ rằng không thể xoay
chuyển. Từ “Tôi” đó cũng khiến ta đồng nhất mình với những gì mình sở hữu, coi
mình là một với nhãn hiệu, chức vụ, nghề nghiệp, sự vật hay sự kiện... Đó là
điều mà Einstein gọi là “một ảo tưởng về
thị giác của nhận thức”. Chính cái “Tôi” sai lầm đó là cơ sở cho mọi suy
diễn sai lạc về thực tại, về các mối quan hệ và hành xử của ta.
Sự đồng hóa mình với bất cứ điều gì đều
làm ta u mê, không còn khả năng nhận ra sự thật về cái “Tôi” đích thực. Vì u mê,
nên những gì mất mát hoặc va chạm đến quyền lợi, danh giá, đều làm ta đau khổ,
lo sợ, bất an, đối chọi, giận dữ, thù hằn... Rõ ràng, tất cả những thứ đó không
phải là “Tôi”, nhưng vì nhận thức mình là như thế, nên mình hóa ra như vậy. Đó
là cái “Tôi” giả tạo, vì chỉ căn cứ vào những gì bên ngoài mình để có được cảm
nhận về giá trị của chính mình. Vì không cảm nhận được mình là sự sống đích thực, sự sống sâu xa trong chính cội nguồn, nên
ta cố gắng lấp đầy đời sống của mình bằng mọi cách để thâu tóm và sở
hữu mọi điều, kể cả tha nhân.
Chung quy mọi thứ cũng chỉ là tập hợp của
những hình ảnh và ý niệm vô thường để hình thành một giá trị như mình mong
muốn. Đó là sự hình thành của một đám mây, tụ đó rồi tan đó. Căn cứ vào sự hợp
tan đó để xác định về giá trị của mình thì quả là vô minh. Ta luôn có khuynh
hướng đồng hóa sở hữu với hiện hữu, nên có cảm giác mình chỉ hiện
hữu khi sở hữu. Nhưng càng gia tăng sở
hữu hay chiếm hữu để tạo giá trị
cho mình, ta càng bị truất hữu, khiến
sự sống đích thực bị cạn kiệt vì ta đã trở nên nô lệ cho ngoại vật. Tình trạng
này càng làm ta bị thất đoạt về tâm
lý, thất sách về tâm trạng, càng nổi
điên trước những tình cảnh ngổn ngang của thế sự
Tỉnh thức là vượt ra khỏi những hiện
tượng hay hiện trạng trên đang khống chế mình, là tách ly tâm thức của mình
khỏi những tạp niệm mà mình tự hòa nhập làm một với chính mình: “Tôi” không phải là cái này hay cái kia, mà
là toàn thể nhân-linh đang hiện hữu trong Đấng Hằng Hữu. “Tôi” không phải trở thành cái gì khác ngoài
việc trở thành chính “Tôi”, là hình ảnh của Thiên Chúa.
Đó là sứ mệnh đặc thù của “Tôi”, một tính cách riêng
biệt giữa mọi tính cách, nhưng mẫu số chung và sự tiêu biểu mẫu mực chính là
Đức Kitô. Trở nên giống Đức Kitô, “Tôi” trở thành chính “Tôi” trong Ngài, vì
Ngài là sự sống viên mãn và là sự hiện hữu bất tận cho sự sống và sự hiện hữu hiện
tại của tôi.
Như vậy, “Tôi” chỉ thực sự là “Tôi” khi
tôi hoàn toàn độc lập với những ý nghĩ, ngôn từ, sự vật, sự việc... nói chung
là mọi hình tướng. Trong tư thế thanh tịnh và bình tâm, khi không còn bám víu
vào vị thế hay sắc thái bên ngoài, cũng không cầu mong trọng vọng bởi bất cứ ai
khác, tôi mới làm chủ mình để có thể quan sát và nhận diện những gì đang xảy ra
trong tôi. Lúc đó, từ “Tôi” mới được dùng đích xác và tinh ròng, không còn bị
trộn lẫn hay nhập nhằng với bất cứ điều gì khác làm thành “Tôi”.
Điều trắc trở nữa khiến ta khó tỉnh thức là khuynh
hướng so sánh mình với những người khác, vừa chạy theo họ vừa muốn thấy mình
sáng giá hơn họ. Một cuộc sống lệ thuộc như vậy khiến ta phải nhìn mình qua cái
nhìn của những người khác, đánh giá mình qua cách đánh giá của họ, nên ta không
có tự do và chân thật để sống cuộc đời mình. Trong hầu hết mọi trường hợp, giá
trị của ta thường bị trói buộc bởi giá trị mà người khác đặt định, nên lúc nào
ta cũng lo sợ và áy náy về cảm nhận của người khác về mình.
Không tự mình đứng vững được thì quan niệm xô bồ của
tập thể sẽ trấn áp và tước mất quyền làm chủ của mình. Lúc đó cái “Tôi” đích
thực biến thành cái “Tôi” vay mượn, nên ta bị biến động và nhiễu nhương không
ngừng. Tình trạng đó khiến ta mất đi ánh sáng tự chân tâm, nên tất cả đều mờ
tối và dẫn ta đến lầm lạc. Vì trong đời sống tâm linh, không có ánh sáng ở
ngoài mình, chỉ có ánh sáng từ trong mình, bởi vậy có lần Chúa Giêsu đã cảnh
giác “Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng
tối” (Lc 11, 35).
Ánh sáng đó cho ta khả năng “phản quan tự kỷ”.
Ánh sáng bên trong đó mới là cội nguồn, ánh sáng
bên ngoài chỉ là hiện tượng. Hiện tượng chỉ có thể nói lên một phần ý nghĩa,
nhưng tâm hồn mờ tối sẽ cho những ý nghĩa sai lạc, hoặc đưa ra những phán đoán
mơ hồ. Tâm hồn đã tối thì không có gì là sáng.
Chỉ có ánh sáng với đôi mắt sáng. Bên ngoài dù ánh
sáng vẫn chói chang, nhưng với đôi mắt mù tối thì mọi sự vẫn tối mù. Nhận ra
đôi mắt tâm hồn mình đang mù tối hay mù mờ là ta đang phát khởi sự tỉnh
thức.
Kết luận.
Cứ hãy bình tâm nhìn lại chính mình, lột trần cái tham
vọng của mình, để thấy mình chẳng có gì quan trọng, chẳng có gì để đặt thành
vấn đề như mình tưởng. Cho dù có những kế hoạch tầm cỡ và những thành công tầm
cao, cũng là chuyện bình thường theo khả năng và trách nhiệm mình đã được trao
ban. Thật ra, trên đời này có ta cũng vậy, không có ta cũng thế. Nói vậy không
phải phủ nhận sự hiện diện độc nhất vô nhị của mỗi người, nhưng cần hiểu rằng,
tất cả đang xuôi theo dòng chảy và nhịp điệu của sự sống; tất cả đang nằm trong
định hướng của Thiên Chúa và kế đồ quan phòng siêu vượt của Ngài.
Tỉnh thức đòi ta cũng phải bình tâm nhận ra những ngụy
tạo của thực tế trong đời thường, dám buông xả tất cả để đem lại phẩm chất và ý
nghĩa đích thực cho đời mình. Tỉnh thức là cứ phải luôn cẩn trọng, vì mọi thứ
đều có màu sắc của mắt kính mình mang. Phải để cho mình được nhìn trực tiếp,
không qua lăng kính nào khác khiến cho thực tế bị biến dạng. Hơn nữa, cần phải
để cho mình được sinh lại từng ngày với đôi mắt tâm hồn trong sáng, với cái
nhìn đã khơi trong gạn đục, không còn bị che chắn bởi rơm rác và căn bã của phù
thế. Tỉnh thức là cứ phải tách mình ra khỏi những quan niệm trần tục, để dám
suy nghĩ và hành động theo lương tâm, dưới ánh sáng Lời Chúa, dưới sự soi dẫn
của Thánh Linh.
Chỉ ai để cho mình sống trong Chúa và để cho Chúa sống
trong mình, thì người đó mới có thể sống tỉnh thức cách cao độ. Đó cũng là cao
độ cũng đức tin, của lòng mến và sự cậy trông, để công trình cứu độ của Thiên
Chúa được hoàn tất nơi mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn
sống tỉnh thức, đừng để con mê muội theo lối sống phàm tục.
Xin
đặt con trước mặt Chúa để sống cuộc đời mình: sống như Chúa đã sống, bằng một tình
yêu như Chúa đã yêu.
Con xác tín rằng,
chẳng có gì giúp con sống tỉnh thức bằng việc năng kết hiệp mật thiết với Chúa.
Chỉ
trong Chúa con mới sáng suốt trong mọi tình thế, khôn ngoan trong mọi tình
trạng, vững vàng trong mọi tình huống, nhạy bén trong mọi tình hình.
Chỉ trong Chúa con
mới phát hiện và vượt thoát những cạm bẫy, những trói buộc, những dính bén,
những gì đang vây hãm và ngăn chặn sự sống của Chúa trong con.
Chỉ trong tỉnh thức,
con mới khám phá và phát huy cuộc sống đích thực của mình, một cuộc sống rất huyền
nhiệm, vì chính Chúa đang sống trong con, và tha thiết mời gọi con sống trong
Chúa.
Chỉ trong tỉnh thức,
con mới biết buông mình theo Thánh Thần, để Ngài khai mở tâm trí và thúc đẩy
mọi hoạt động của con theo dự định của Chúa.
Chỉ
trong tỉnh thức, con mới biết sống trọn vẹn cuộc đời mình như một hồng phúc,
biết trao hiến cuộc sống mình như một ân phúc, và cuối cùng được hưởng kiến
Chúa là chính nguồn hạnh phúc. Amen.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét